Các thông số chính và các vấn đề thường gặp của bơm thủy lực
1.6.5 Hiện tượng dầu bị kẹt và biện pháp giải phóng
(1) Quá trình làm việc của bơm thủy lực dịch chuyển tích cực nói chung được chia thành ba giai đoạn: đầu tiên, chất lỏng được hút vào bằng chân không tạo ra do thể tích của khoang hút dầu tăng lên (giai đoạn hút dầu), sau đó chất lỏng được xả vào hệ thống bằng cách giảm thể tích của khoang xả dầu (giai đoạn xả dầu). Ở đây chủ yếu là để phân tích hiện tượng dầu bị kẹt và các biện pháp giải phóng nó.
Theo nguyên lý hoạt động cơ bản của bơm thủy lực, khi bơm thủy lực ở giai đoạn giữa, khoang làm việc của nó nằm trong vùng đệm chuyển tiếp giữa khoang hút và xả dầu, giữ một phần dầu trong vùng đệm và tạo thành thể tích dầu bị giữ. Với sự quay của bơm thủy lực, chuyển động của bộ ép sẽ gây ra những thay đổi định kỳ trong thể tích dầu bị giữ: khi thể tích dầu bị giữ giảm, áp suất dầu tăng, gây ra tải trọng định kỳ bổ sung lên ổ trục và các thành phần khác của bơm, dẫn đến va đập và tiếng ồn, dẫn đến dầu bị nóng; khi thể tích dầu bị giữ tăng, áp suất giảm (chân không cục bộ) do không có dầu bổ sung, có thể xảy ra hiện tượng sủi bọt và sủi bọt. Đây là hiện tượng dầu bị giữ. Dầu bị giữ là một hiện tượng có hại, nó sẽ làm giảm hiệu suất của bơm thủy lực, rút ngắn tuổi thọ của bơm, vì vậy chúng ta phải cố gắng loại bỏ nó.
Để loại bỏ hiện tượng dầu bị kẹt, cần phải thực hiện các biện pháp dỡ tải cần thiết trong kết cấu. Nguyên tắc là làm cho áp suất thay đổi trong thể tích dầu bị kẹt càng nhiều càng tốt để thích ứng với áp suất khi các khoang hút và xả dầu được kết nối trên tiền đề đảm bảo hiệu suất thể tích.
(2) Biện pháp xả tải do khoang làm việc của bơm thủy lực nằm giữa khoang hút và khoang xả khi ở giai đoạn giữa nên có ba trường hợp có thể xảy ra: nắp âm, nắp không và nắp dương.
① Phủ âm, còn gọi là mở dương, nghĩa là khi khoang làm việc nằm giữa khoang hút và xả dầu, khoang làm việc sẽ thông với chúng, lúc này buồng làm việc sẽ không sản sinh ra dầu bị giữ lại, nhưng sẽ sản sinh ra rò rỉ bên trong lớn, làm giảm hiệu suất thể tích, do đó cấu trúc phủ âm thường không được sử dụng.
② Zero cover, còn gọi là zero opening, là tình huống khi khoang làm việc nằm giữa khoang hút dầu và khoang xả dầu, khoang làm việc vừa được bịt kín, khoang hút dầu và khoang xả dầu vừa được tách ra. Trong trường hợp này, áp suất dầu trong khoang làm việc tăng từ áp suất hút dầu lên áp suất xả dầu hoặc giảm từ áp suất xả dầu xuống áp suất hút dầu từng bước, do đó gây ra sốc áp suất và tiếng ồn, đây là hiện tượng dầu bị kẹt.
③ Phủ tích cực, còn gọi là mở tiêu cực, chỉ tình huống khoang làm việc bị bịt kín trong một khoảng thời gian, chắc chắn sẽ sinh ra hiện tượng dầu bị kẹt. Tuy nhiên, chỉ cần sử dụng hợp lý hiện tượng dầu bị kẹt thì có thể loại bỏ hiện tượng áp suất bậc thang. Do đó, loại cấu trúc phủ tích cực và biện pháp dỡ tải dựa trên cấu trúc này thường được sử dụng trong bơm thủy lực, cấu trúc cụ thể thay đổi theo loại bơm.
Ví dụ, bơm bánh răng nằm ở phía trước và phía sau của bơm, nắp cuối của bề mặt bên trong của rãnh xả tương ứng với vùng dầu bị kẹt, trong khi bơm piston hướng trục nằm trong tấm van có rãnh tam giác hoặc lỗ dầu.
1.6.6 dao động dòng chảy
Theo động học của bơm thủy lực, lưu lượng tức thời của hầu hết các bơm không phải là hằng số về mặt lý thuyết (trừ bơm trục vít) và có hiện tượng dao động dòng chảy. Dao động dòng chảy có tác động trực tiếp đến hiệu suất và tuổi thọ của các thành phần và hệ thống thủy lực. Biên độ dao động của dòng chảy tức thời càng lớn thì độ ổn định chuyển động của bộ truyền động thủy lực càng kém. Đối với hệ thống cung cấp dầu nhiều bơm, đồng bộ hóa dao động có thể làm tăng biên độ và làm giảm hiệu suất. Dao động dòng chảy tức thời cũng sẽ gây ra dao động áp suất, gây hư hỏng mỏi cho trục truyền động, ổ trục, đường ống, mối nối và phớt của bơm và động cơ thủy lực. Ngoài ra, khi tần số dao động của dòng chảy tức thời gần hoặc bằng tần số tự nhiên của van xả, hiện tượng cộng hưởng của van cũng có thể xảy ra.
Sự dao động của dòng chảy thường được đánh giá bằng hệ số không đồng đều của dòng chảy, tức là
(1-16)
Trong đó (qinst) max -- lưu lượng tức thời lý thuyết lớn nhất của bơm thủy lực;
(qinst) min -- lưu lượng tức thời tối thiểu theo lý thuyết của máy bơm thủy lực.
Hệ số không đồng nhất dòng chảy δ càng nhỏ thì độ dao động của dòng chảy càng nhỏ hoặc chất lượng dòng chảy tức thời theo lý thuyết càng tốt.
Tần số dao động dòng chảy liên quan đến các thông số cấu trúc như tốc độ của bơm và số lượng bộ ép (như số răng bánh răng của bơm bánh răng, số cánh của bơm cánh gạt, số lượng pít tông của bơm pít tông, v.v.). Các loại bơm khác nhau hoặc bơm cùng loại và kích thước hình học khác nhau có dao động dòng chảy khác nhau.